1. Một số kết quả ứng dụng KHCN điển hình trong nuôi trồng thủy sản
– Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang đã và đang ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, xây dựng nhiều mô hình nuôi tôm sú, tôm chân trắng siêu thâm canh theo các hình thức ao lót bạt đáy – hai giai đoạn, biofloc,…(mật độ thả 300-500 con/m2); năng suất cao gấp 5,2-12,8 lần so với cách nuôi truyền thống (ao đất, lót bạt bờ). Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 450 ha/2.500 ha diện tích nuôi tôm theo các hình thức này. Với những ưu điểm vượt trội có được (kiểm soát tốt môi trường, dịch bệnh, sức khỏe tôm; năng suất, sản lượng cao; tiết kiệm nước sử dụng;…), mô hình này sẽ còn mở rộng hơn nữa trong thời gian tới. Đây là kết quả của việc chủ động nắm bắt, tiếp cận ứng dụng tiến bộ KHCN của người dân và doanh nghiệp cũng như định hướng của cơ quan quản lý chuyên ngành.
– Về chứng nhận vùng nuôi tôm công nghệ cao, Công ty Cổ phần Trung Sơn (xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương) là đơn vị đầu tiên của tỉnh có vùng sản xuất nguyên liệu (chủ yếu là nuôi tôm thương phẩm và chế biến xuất khẩu) được công nhận Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (theo Quyết định số 230/QĐ-UBND ngày 25/01/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang).
– Về sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực, thông qua đề tài khoa học “Sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) toàn đực tại tỉnh Kiên Giang”, Trung tâm Khuyến nông đã triển khai tại Trại Thực nghiệm và Sản xuất giống Thứ Sáu Biển, huyện An Biên.Tôm cái giả được mua từ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Tôm giống sản xuất được có kích cỡ đồng đều, không dị hình dị tật, tỷ lệ tôm đực trung bình đạt 99,6%; được người nuôi đánh giá rất cao về chất lượng. Đây là hướng đi mới, đang đề xuất nhân rộng cho các cơ sở có điều kiện sản xuất trong tỉnh, nhằm tiến tới chủ động được con giống cung cấp cho người dân, giúp cho nghề nuôi phát triển bền vững.
– Trong nuôi cá lồng bè thương phẩm trên biển, tại Kiên Giang ghi nhận sự góp mặt của Công ty TNHH MTV Thương mại Dịch vụ Xuất nhập khẩu Trấn Phú với việc đưa công nghệ lồng Nauy (lồng tròn, vật liệu HDPE, đường kính 30m) về nuôi cá chim, cá hồng mỹ tại huyện Phú Quốc. Công suất thiết kế 1.500 tấn cá biển thương phẩm/năm. Sử dụng con giống nhân tạo chất lượng cao; thức ăn công nghiệp; sản phẩm thu hoạch đảm bảo an toàn thực phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường EU, Hoa Kỳ.

– Để chủ động việc giám sát, cảnh báo môi trường phục vụ hiệu quả cho sản xuất, UBND tỉnh đã thông qua và phê duyệt Dự án đầu tư hệ thống trạm QTMT nước tự động phục vụ NTTS kết hợp bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh Kiên Giang với kinh phí thực hiện 70 tỷ đồng. Ngoài ra, thông qua hợp tác với Tổng cục Thủy sản, tỉnh cũng đang đặt hàng Tập đoàn VNPT thiết kế, cung cấp hệ thống thiết bị thông minh nhằm giám sát chặt chẽ biến động môi trường nước và sức khỏe tôm trong ao nuôi.
2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng KHCN
Thời gian qua, việc ứng dụng KHCN trong NTTS của tỉnh Kiên Giang có những thuận lợi cơ bản như:
– Chủ trương xuyên suốt, đồng bộ của Tỉnh ủy, UBND tỉnh là lấy KHCN làm nền tảng sản xuất; do đó, công tác chỉ đạo rất sâu sát và việc thực thi của ngành Nông nghiệp là khá quyết liệt trong việc ứng dụng KHCN nhằm thúc đẩy sản xuất theo hướng hiệu quả, an toàn, bền vững.
– Người dân, doanh nghiệp rất quan tâm và cũng khá mạnh dạn trong việc tiếp cận, đầu tư áp dụng công nghệ nuôi mới vào sản xuất (nuôi tôm lót bạt đáy, hai giai đoạn; cá lồng bè Nauy,…).