Bệnh phân trắng trong tôm (WFS) làm giảm tốc độ tăng trưởng và giảm năng suất do tôm tiết ra phân trắng nổi trên mặt nước ao, gan tụy bị mềm và động vật nguyên sinh bám lớp vỏ ngoài. Sự bất thường này làm tôm giảm sự thèm ăn, chậm tăng trưởng do hấp thụ chất dinh dưỡng bị rối loạn, kích thước tôm chênh lệch, tăng tỷ lệ chết.
Ngoài ra, nguyên nhân gây ra phân trắng là tương tác của gregarine với vi khuẩn Vibrio sp. Bệnh này thường xảy ra ở tôm sử dụng thức ăn công nghiệp và ít xảy ra trong ao nuôi tự nhiên.
Tôm nhiễm bệnh phân trắng được chia làm ba nghiệm thức có bổ sung chiết xuất mực tương ứng các độ mặn là A (24 ppt), B (27 ppt), C (30 ppt), và nhóm đối chứng không sử dụng chiết xuất mực.
Mực được lấy từ túi mực và giữ tươi trong tủ lạnh trước khi sử dụng. Sau đó tiến hành bổ sung 8ppm chiết xuất mực trong nước ấm được phun vào thức ăn cho tôm sau đó giữ nó trong 24 giờ trong nhiệt độ phòng. Sử dụng chiết xuất mực ảnh hưởng đến tôm ở nhiều khía cạnh như: Enzyme tiêu hóa, THC (tổng tế bào máu), tế bào hồng cầu khác biệt (DHC), tỷ lệ sống,…
Enzyme tiêu hóa
Việc cung cấp chiết xuất mực đã ảnh hưởng đến hoạt động tiêu hóa của tôm ở các độ mặn khác nhau và kết quả cho thấy hoạt động các enzyme ở nghiệm thức độ mặn 27 ppt (nghiệm thức B) là cao nhất, điều này là do hoạt động kháng sinh trong dịch mực kết hợp độ mặn thích hợp đã làm tăng hoạt động của các enzyme. Cụ thể enzyme protease tăng lên đến 378×10-3 U/ml, amylase 4,029×10-3 U/ml và lipase 3,613×10-3 U/ml.
THC (tổng tế bào máu)
Một nghiên cứu trước đây đã cho thấy chiết xuất mực ống có chất kháng khuẩn, chống oxy hóa, kháng virus như alkaloid (betaine và choline) và axit cinnamic có thể được sử dụng như là chất kích thích miễn dịch và kích thích tế bào máu tôm hoạt hóa. Do đó, trong nghiên cứu này các nhóm nghiệm thức sử dụng chiết xuất mực đều cho thấy tổng tế bào máu cao hơn so với nhóm đối chứng, đặc biệt là nhóm nghiệm thức có độ mặn 27ppm với THC là 11,89 x 106 tế bào/ml.
Tế bào hồng cầu khác biệt (DHC)
Tế bào máu được phân loại dựa vào kích thước của tế bào và sự hiện diện của các hạt bên trong tế bào chất. Tế bào máu ở tôm được chia làm 3 loại: tế bào không hạt, tế bào bán hạt và tế bào hạt.
Tế bào không hạt và tế bào bán hạt của tôm thẻ có vai trò quan trọng trong quá trình thực bào vi khuẩn và các hạt nhân tạo, trong khi tế bào hạt có vai trò trong việc sản sinh, dự trữ và sản xuất các hợp chất kháng khuẩn đặc biệt là dự trữ prophenoloxydase (proPO). Tăng cường hệ miễn dịch không đặc hiệu đã chứng tỏ hệ thống phòng thủ của tôm vẫn đang hoạt động thông qua việc kích hoạt hệ thống proPO. Ở nghiệm thức độ mặn 27 ppt, hoạt động thực bào có xu hướng tuyến tính với số lượng tế bào. Tế bào không hạt đạt giá trị cao nhất tăng từ 32,083% lên 39,090%, tế bào hạt là 21,43% và tế bào bán hạt là 47,74%.
Tỷ lệ sống (SR)
Tỷ lệ sống cao nhất là 85,73% ở nghiệm thức B (độ mặn 27 ppt) vì độ mặn thích hợp và các hợp chất kháng khuẩn trong chiết xuất mực ống có thể đã ức chế mầm bệnh, làm giảm căng thẳng cho tôm do đó tăng tỷ lệ sống cũng như tăng trưởng của tôm.
Mực được tạo ra từ các loài cephalopod là một chất lỏng có màu đen được tiết ra để giúp bảo vệ cơ thể mực. Mỗi loài trong họ này có thể tạo ra các loại mực có màu hơi khác nhau và nó phổ biến với nhiều tên gọi chẳng hạn như mực ống, mực nang, mực đen, mực cephalopod và mực bạch tuộc.