Người nuôi tôm ở Indonesia đang vượt qua những thách thức hiện tại như thế nào

Người nuôi tôm ở Indonesia đang phải vật lộn với hàng loạt thách thức, bao gồm giá giảm, chi phí sản xuất tăng và dịch bệnh bùng phát. Bất chấp những rào cản này, họ vẫn cam kết với công việc của mình và sẵn sàng áp dụng công nghệ mới để giúp họ duy trì sinh kế.

Trước những khó khăn kinh tế toàn cầu và tình trạng thừa tôm trên thị trường, ngành nuôi tôm châu Á đang chuẩn bị cho một năm 2023 đầy thách thức – trong đó sản lượng dự kiến ​​sẽ tăng trưởng tối thiểu và giá khó có thể cải thiện. Ở Purworejo, Trung Java, người nuôi tôm đang cảm nhận được tác động của những thách thức này. Ngoài giá giảm và chi phí thức ăn tăng, họ còn phải đối phó với các đợt bùng phát dịch bệnh khác nhau và khí hậu thay đổi.

Eko Winasis biết rất rõ những thách thức. Trong bảy năm qua, ông đã quản lý một trang trại nuôi tôm ở Purworejo, giám sát 27 ao có diện tích từ 1.000 đến 1.800 mét vuông. Trang trại có tổng diện tích khoảng 5 ha và mật độ thả thường vào khoảng 70 đến 80 con hậu ấu trùng (PL)/m 2.

Theo Eko, các bệnh do vi khuẩn như hội chứng tôm chết sớm (EMS) và hội chứng phân trắng (WFS) hiện đang là những vấn đề chính.

Trước những khó khăn kinh tế toàn cầu và tình trạng thừa tôm trên thị trường, ngành nuôi tôm châu Á đang chuẩn bị cho một năm 2023 đầy thách thức – trong đó sản lượng dự kiến ​​sẽ tăng trưởng tối thiểu và giá khó có thể cải thiện . Ở Purworejo, Trung Java, người nuôi tôm đang cảm nhận được tác động của những thách thức này. Ngoài giá giảm và chi phí thức ăn tăng, họ còn phải đối phó với các đợt bùng phát dịch bệnh khác nhau và khí hậu thay đổi.

Eko Winasis biết rất rõ những thách thức. Trong bảy năm qua, ông đã quản lý một trang trại nuôi tôm ở Purworejo, giám sát 27 ao có diện tích từ 1.000 đến 1.800 mét vuông. Trang trại có tổng diện tích khoảng 5 ha và mật độ thả thường vào khoảng 70 đến 80 con hậu ấu trùng (PL)/m 2 .

Theo Eko, các bệnh do vi khuẩn như hội chứng tôm chết sớm (EMS) và hội chứng phân trắng (WFS) hiện đang là những vấn đề chính.

“Dịch bệnh luôn phát triển, vì vậy chúng ta chỉ có thể ngăn ngừa chúng tốt nhất có thể. Nhưng ngay cả khi có các biện pháp phòng ngừa tốt nhất, dịch bệnh vẫn có thể xảy ra.”

Eko Winasis, quản lý trang trại

“Không có viên đạn bạc nào cho vấn đề này,” ông nói. “Dịch bệnh luôn phát triển, vì vậy chúng ta chỉ có thể ngăn chặn chúng một cách tốt nhất có thể. Nhưng ngay cả khi đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa tốt nhất , dịch bệnh vẫn có thể bùng phát.”

Eko đã tham gia vào lĩnh vực nuôi tôm từ năm 2005 và đã trực tiếp chứng kiến ​​tác động của dịch bệnh đối với sản xuất và lợi nhuận của trang trại. Trước khi dịch EMS bùng phát vào đầu năm 2019, tỷ lệ sống của tôm trong trang trại của anh là khoảng 70 đến 80%, nhưng sau khi dịch bệnh bùng phát, con số này có thể giảm xuống mức thấp nhất là 30%.

Một trong những bệnh mà Eko đặc biệt quan tâm là EMS hay còn gọi là bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) gây chết hàng loạt trong ao nuôi. Căn bệnh này đã trở nên phổ biến hơn trong những năm gần đây và rất khó dự đoán cũng như phòng ngừa. Một căn bệnh khác mà Eko phải đối phó là WFS, khiến tôm chậm lớn. Bệnh do vi khuẩn là loại bệnh phổ biến nhất được tìm thấy ở bờ biển phía nam Java, nơi có trang trại của Eko.

Trang trại nuôi tôm ở Purworejo, Trung Java, Indonesia 

Người nuôi đang phát hiện bệnh vi khuẩn trên tôm đặc biệt khó phòng trị

Budi Harsoyo cũng phải đối mặt với thách thức tương tự. Người từng làm vườn bắt đầu nuôi tôm vào tháng 12 năm 2014, chỉ với ba ao. Ngày nay, anh sở hữu 19 ao và quản lý thêm 6 ao nữa trong một liên doanh với các bên khác. Trang trại của anh có tổng diện tích 2,5ha, diện tích mỗi ao nuôi từ 900 – 1.200m2. Mật độ thả trong trang trại là khoảng 100 PL/m 2, và trọng tải trên mỗi ha hiện là từ 5 đến 10 tấn. Trước khi EMS/AHPND bùng phát, trang trại của Budi có thể sản xuất tới 20 tấn/ha.

Theo Budi, nghề nuôi tôm ngày nay khác nhiều so với 7 năm trước. Trước EMS/AHPND, Budi chưa bao giờ bị thiệt hại về sản lượng, nhưng kể từ khi dịch bệnh xuất hiện, anh thấy thiệt hại về sản lượng trở nên thường xuyên hơn. “Làm nông nghiệp không còn dễ dàng như trước đây,” anh nói.

Trong những năm gần đây, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đã bắt đầu tác động đến hoạt động của cả nông dân. Các sự kiện thời tiết cực đoan đã xảy ra thường xuyên hơn và các mùa đang trở nên khó lường hơn. Ngoài ra, Budi nói rằng “chất lượng nước không còn như trước và việc duy trì một môi trường lành mạnh cho tôm phát triển trở nên khó khăn hơn nhiều”.

Eko cũng đã nhìn thấy tác động của biến đổi khí hậu đối với trang trại của mình. Ông nói: “Trước đây, nguy cơ mắc EMS/AHPND cao hơn trong mùa khô và thấp hơn trong mùa mưa. “Nhưng bây giờ, nó có thể xảy ra vào bất kỳ mùa nào. Chúng tôi cần phải cảnh giác liên tục.”

Đại dịch Covid-19 đã tạo thêm một lớp phức tạp khác cho Budi, người đã tạm thời đóng cửa trang trại của mình.

“Tôi lo lắng cho sức khỏe của mình và tình hình tài chính của trang trại. Nhưng tôi cảm thấy điều quan trọng là phải duy trì hoạt động của trang trại, vì vậy tôi đã mở cửa trở lại sau một thời gian ngắn,” anh giải thích.

Mặt khác, Eko nói rằng đại dịch có tác động tối thiểu đến trang trại của anh ấy.

“Về mặt sản xuất, Covid không thực sự ảnh hưởng đến trang trại của chúng tôi,” anh nói. “Giá tôm có giảm trong giai đoạn đầu của đại dịch, nhưng hoạt động của chúng tôi không bị ảnh hưởng đáng kể.”

Xoắn ốc chi phí đầu vào

Một trong những thách thức chính mà người nuôi tôm phải đối mặt là chi phí thức ăn gia tăng. Budi đã được đại lý bán thức ăn chăn nuôi của mình cho biết rằng giá cao hơn là do chi phí nguyên liệu và nhiên liệu tăng cao. Thương hiệu thức ăn chăn nuôi ông sử dụng được nhập khẩu từ Việt Nam nên càng đắt hơn. Ông lưu ý rằng giá tôm sau ấu trùng cũng tăng trong thời gian gần đây.

Trang trại nuôi tôm tổng hợp ở Indonesia 

Ngành tôm của Indonesia cũng đang phải đối mặt với những thách thức từ chi phí nguyên liệu thức ăn và nhiên liệu cao hơn © Tổ chức Tôm Lim

Đối với riêng Eko, chi phí nhiên liệu tăng cao ở Indonesia tạo thêm một thách thức khác. Bởi vì trang trại của anh ấy không được kết nối với lưới điện, nó dựa vào động cơ diesel để cung cấp năng lượng. Khi chi phí nhiên liệu tăng lên, việc vận hành trang trại trở nên đắt đỏ hơn.

Chiến lược tồn tại kinh tế

Để đối phó với tình trạng giá giảm và chi phí tăng, Eko đã thực hiện các chiến lược để giảm chi phí sản xuất, chẳng hạn như giảm thiểu việc sử dụng men vi sinh và trộn khoáng chất của riêng mình. Ông cũng luôn tìm kiếm các phương pháp mới để cải thiện sản xuất và ngăn ngừa bệnh tật.

Do giá tôm cỡ lớn giảm nên kích cỡ nhỏ hơn hiện hấp dẫn hơn đối với nhiều nông dân. Tuy nhiên, Eko đang tập trung sản xuất tôm cỡ 40 con [tức là 40 con/kg/cỡ trung bình 25 g] – với mật độ cao hơn để bù đắp những tổn thất có thể xảy ra do dịch bệnh.

Trong khi đó, Budi đã thực hiện một hệ thống hai giai đoạn sử dụng ao ương công nghệ thấp mà ông đã phát triển. Hậu ấu trùng hiện được thả trong ao ương từ 20 đến 25 ngày trước khi chuyển sang ao nuôi thương phẩm, thường ở kích cỡ 1,5 đến 2 g. Theo Budi, tôm được nuôi trong ao ương có cơ hội sống cao hơn so với tôm thường cỡ PL9 đến PL10 được thả trực tiếp vào ao nuôi thương phẩm.

Ngoài ra, anh thả ít tôm hơn để tránh thiệt hại do dịch bệnh. Cách tiếp cận này có thể dẫn đến sản xuất ổn định hơn và ít lãng phí thức ăn hơn dẫn đến tôm chết, và đây là một chiến lược thành công của Budi. Bằng cách sử dụng ao ương, anh thả ít tôm hơn nhưng tạo ra nhiều sinh khối hơn với hiệu quả cao hơn.

Ông nói: “Trước khi sử dụng ao ương, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn của chúng tôi là khoảng 0,9 đến 1,0. “Sau khi sử dụng ao ương, nó giảm xuống còn 0,6 đến 0,7.”

Budi cũng đã phải điều chỉnh hoạt động của mình để đối phó với giá tôm giảm. Nếu giá tôm nhỏ tốt hơn, anh sẽ tăng mật độ thả để tận dụng lợi thế của giá cao hơn. Khi tôm lớn lãi hơn, anh sẽ tập trung nuôi tôm lớn hơn. Bất chấp tác động đến lợi nhuận của mình, Budi tin rằng nông dân cần phải thích nghi để tồn tại.

Tác giả: bởi Unies Ananda Raja phóng viên nuôi trồng thủy sản Indonesia

Nguồn: Thefish

Trang: Sinh Học Tôm Vàng

Công ty SINH HỌC TÔM VÀNG là nhà nhà sản xuất và phân các sản phẩm:

? dưỡng chất nuôi tôm cá

? thuốc thủy sản phòng trị bệnh cho thủy sản tôm cá

? men tiêu hóa cho tôm cá

? men vi sinh cho tôm cá

? xử lý nước ao nuôi tôm cá.

Quy trình nuôi tôm công nghệ cao tư vấn thiết kế và xây dựng mô hình nuôi tôm công nghệ cao đạt hiệu quả và tỉ lệ thành công 90% trọn vẹn niềm tin.

Tư vấn hợp tác chuyển giao công nghệ liên hệ: 0906 666 621

Sản phẩm bán chạy nhất

Thông tin liên hệ: 09.333.333.61 hoặc truy cập qua facebook: Sinh học tôm vàng để biết thêm thông tin.

Tư vấn hợp tác chuyển giao công nghệ liên hệ: 09.333.333.61 Quy trình nuôi tôm công nghệ cao SINH HỌC TÔM VÀNG tư vấn thiết kế và xây dựng mô hình nuôi tôm công nghệ cao đạt hiệu quả và tỉ lệ thành công 90% trọn vẹn niềm tin.

Sinh Học Tôm Vàng